LÝ VƯƠNG KHANH (Khóa 63CLC Đại học quốc gia Hà Nội) ThS. VŨ ĐÌNH NĂM (Đại học Công nghệ giao thông vận tải) – Bài viết này phân tích chi tiết các quy định liên quan đến kinh doanh trực tuyến trên các nền tảng mạng xã hội, từ đó làm sáng tỏ những vướng mắc, hạn chế của những quy định pháp luật hiện hành và đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện, nâng cao hệ thống pháp luật về kinh doanh trực tuyến.
Công nghệ 4.0 phát triển mạnh mẽ giúp cho việc mua bán hàng hóa trực tuyến thuận tiện và phổ biến hơn bao giờ hết. Hơn nữa, khi dịch Covid-19 bùng nổ trên nhiều quốc gia với tốc độ lây lan nhanh chóng thì mua bán trực tuyến là giải pháp tối ưu thay thế cho phương pháp mua bán truyền thống. Chính vì những thay đổi này của môi trường khách quan, kinh doanh trực tuyến ngày càng được mở rộng và đa dạng về hình thức cũng như nội dung. Kinh doanh trực tuyến diễn ra trên các sàn thương mại điện, các website, các ứng dụng và có lẽ phổ biến nhất là trên nền tảng mạng xã hội. Từ đó, nhiều vấn đề pháp lý về kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội nảy sinh và cần có hệ thống pháp luật cụ thể, rõ ràng để hướng dẫn, xử lý.
Thế nào là kinh doanh trực tuyến
Về mặt khái niệm, chưa có bất cứ văn bản quy phạm pháp luật nào trong hệ thống pháp luật Việt Nam đưa ra định nghĩa về “kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội”. Tuy nhiên, các từ khóa là “kinh doanh”, “mạng xã hội” đã được giải thích trong văn bản luật và văn bản dưới luật. Trước hết, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận”. Bên cạnh đó, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng quy định mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác.[1] Dựa vào sự giải nghĩa của hai từ ngữ chính, có thể hiểu “kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội” là loại một hình dịch vụ cung ứng các sản phẩm, diễn ra trên mạng xã hội thông qua Internet mà cả người bán và khách hàng đều sử dụng mạng xã hội. Hiện nay, nền tảng mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất trong kinh doanh trực tuyến là Facebook, Zalo, Youtube và Instagram[2]. Vì vậy, bài viết sẽ tập trung phân tích các vấn đề và quy định pháp lý liên quan đến các mạng xã hội này.
Những quy định pháp luật về kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội
Thứ nhất, quy định về vấn đề đăng ký kinh doanh (ĐKKD) – vấn đề cốt lõi đối với cá nhân hay tổ chức muốn tiến hành kinh doanh. Đăng ký kinh doanh là một hoạt động pháp lý trong đó chủ thể kinh doanh thực hiện việc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cơ quan đăng ký kinh doanh) nhằm ghi nhận sự ra đời của một mô hình kinh doanh và xác định địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh đó trên thị trường[3]. Theo Nghị định số 39/2007/NĐ-CP, những trường hợp cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, công việc không có địa điểm cố định,… thì không phải đăng ký kinh doanh (Điều 3 khoản 1). Đồng thời, Thông tư số 47/2014/TT-BCT nêu rõ:
“Các mạng xã hội có một trong những hình thức hoạt động với hình thức dưới đây phải tiến hành đăng ký với Bộ Công Thương dưới hình thức sàn giao dịch thương mại điện tử:
– Website cho phép người tham gia được mở các gian hàng trên đó để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ;
– Website cho phép người tham gia được lập các website nhánh để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ;
– Website có chuyên mục mua bán trên đó cho phép người tham gia đăng tin mua bán hàng hóa và dịch vụ;” (Điều 6 khoản 1)
Về mặt bản chất và phương thức tổ chức, hoạt động kinh doanh trên các mạng xã hội cũng giống với hoạt động kinh doanh trên sàn giao dịch thương mại điện tử. Tuy nhiên, người bán hàng trên đó không phải đăng ký với Bộ Công Thương mà doanh nghiệp vận hành mạng xã hội, website này mới phải tiến hành đăng ký.
Thứ hai, pháp luật quy định về trách nhiệm của người kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội. Theo Điều 37 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, người bán phải có trách nhiệm:
- Cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin quy định tại Điều 29 Nghị định này cho thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử khi đăng ký sử dụng dịch vụ.
- Cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ theo quy định từ Điều 30 đến Điều 34 Nghị định này khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử.
- Đảm bảo tính chính xác, trung thực của thông tin về hàng hóa, dịch vụ cung cấp trên sàn giao dịch thương mại điện tử.
- Thực hiện các quy định tại Mục 2 Chương II Nghị định này khi ứng dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên sàn giao dịch thương mại điện tử.
- Cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của mình khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ hoạt động thống kê thương mại điện tử.
- Tuân thủ quy định của pháp luật về thanh toán, quảng cáo, khuyến mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các quy định của pháp luật có liên quan khác khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử.
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, Thông tư số 47/2017/TT-BCT nêu rõ những mặt hàng hạn chế kinh doanh trực tuyến như: súng, thuốc lá điếu, xì gà, rượu… (Điều 3).
Thứ ba, quy định về lập hóa đơn bán hàng. Theo quy định tại Điều 18 Thông tư số 39/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính, khi bán hàng, người bán phải lập hóa đơn và giao cho người mua, trừ trường hợp bán hàng có tổng giá trị thanh toán dưới 200.000 đồng. Trường hợp bán hàng mà không lập, xuất hóa đơn thì bị phạt vi phạm hành chính về hóa đơn với mức phạt cao nhất là 20 triệu đồng theo khoản 5 Điều 1 Thông tư số 176/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính nếu hàng hóa có giá trị thanh toán từ 200.000 đồng trở lên. Đặc biệt, nếu hành vi không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ mà cấu thành Tội trốn thuế sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thứ tư, nghĩa vụ đóng thuế của người kinh doanh trực tuyến cũng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, trực tiếp áp dụng cho người đang buôn bán trên nền tảng mạng xã hội. Theo Điều 1 Thông tư số 92/2015/TT-BTC người nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là cá nhân cư trú bao gồm cá nhân, nhóm cá nhân và hộ gia đình có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, người nộp thuế không bao gồm cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống. Ngoài thuế GTGT và thuế TNCN, người kinh doanh trực tuyến còn phải đóng lệ phí môn bài. Theo Điều 4 Nghị định số 139/2016/NĐ-CP lệ phí môn bài áp dụng với hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân (gồm cả hoạt động kinh doanh trực tuyến) được quy định như sau:
– Đối với tổ chức, cá nhân có thu nhập trên 500 triệu đồng/một năm thì phải nộp lệ phí môn bài trong một năm là 1 triệu đồng;
– Đối với tổ chức, cá nhân có thu nhập từ 300 đến 500 triệu đồng/một năm thì phải nộp lệ phí môn bài trong một năm là 500.000 đồng;
– Còn đối với tổ chức, cá nhân có thu nhập từ 100 đến 300 triệu đồng/một năm thì phải nộp lệ phí môn bài trong một năm là 300.000 đồng.
Đồng thời “Với cá nhân, hộ kinh doanh sẽ được miễn lệ phí môn bài khi có doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống” (Điều 3 khoản 1 Nghị định số 139/2016/NĐ-CP). Như vậy, người kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội mà có doanh thu trên 100 triệu đồng/ năm thì có nghĩa vụ nộp thuế GTGT, thuế TNCN và lệ phí môn bài theo quy định của pháp luật.
Ưu điểm và hạn chế của những quy định pháp luật về kinh doanh trực tuyến trên mạng xã hội
Về ưu điểm, những quy định trên phần nào có ý nghĩa trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội. Chúng phổ thông, dễ hiểu và góp phần làm bình ổn thị trường mạng xã hội nên không thể phủ nhận vai trò của các quy định pháp lý này trong thực tiễn áp dụng. Đó là căn cứ để người kinh doanh tiến hành hoạt động kinh doanh hợp pháp, tránh những rủi ro hay tranh chấp xảy ra; là công cụ giúp các cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình trong quá trình kiểm tra, quản lý; là tiền đề tạo môi trường cạnh tranh công bằng cho các loại hình kinh doanh khác, tránh làm xáo trộn nền kinh tế.
Bên cạnh đó, quá trình thực thi và quản lý cho thấy những quy định pháp luật về kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội vẫn còn một số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, người kinh doanh trực tuyến trên các mạng xã hội như Facebook, Zalo, Instagram – những nền tảng thu hút hàng triệu người tham gia không phải đăng ký kinh doanh. Mục đích của việc đăng ký kinh doanh là sự đảm bảo của nhà nước. Khi một cá nhân hay tổ chức đăng ký kinh doanh, có nghĩa là, hoạt động kinh doanh này được hợp pháp hóa một cách công khai và minh bạch. Không chỉ vậy, các cơ quan nhà nước cũng dễ dàng hơn trong việc kiểm tra, quản lý quá trình hoạt động kinh doanh của cá nhân hay tổ chức đó. Vì thế, những người kinh doanh trực tuyến trên mạng xã hội không phải đăng ký kinh doanh sẽ khiến cho thị trường trực tuyến nhiễu loạn, bất cứ ai cũng tự do mua bán tùy ý, việc quản lý sẽ trở nên khó khăn, phức tạp. Không ký kinh doanh đồng nghĩa với việc cơ quan có thẩm quyền không thể biết chính xác số lượng cơ sở, cá nhân kinh doanh, không kiểm soát được nguồn gốc và chất lượng sản phẩm, hình thức giao dịch, giá cả hàng hóa. Đặc biệt là đối với thị trường rộng lớn như mạng xã hội, nhiều tranh chấp xảy ra nên đặc biệt cần sự quản lý sát sao của cơ quan nhà nước. Để làm được điều đó, đăng ký kinh doanh là quy định căn bản nhất để nhà nước bao quát được thị trường.
Thứ hai, trách nhiệm của người kinh doanh trực tuyến được quy định thiếu cụ thể, không rõ ràng. Pháp luật không quy định cụ thể về chất lượng, tình trạng mặt hàng được phép kinh doanh. Thông tư số 47/2017/TT-BCT nêu rõ những mặt hàng bị hạn chế nhưng không xác định hạn chế ở mức nào, ở số lượng bao nhiêu. Điều này tạo cơ hội cho những người kinh doanh trực tuyến “lách luật”, ngang nhiên kinh doanh những mặt hàng bị hạn chế với số lượng lớn. Thêm vào đó, thông tư này đã có quy định về việc quản lý hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội nhưng lại không có các chế tài cụ thể cho hành vi vi phạm tương ứng dẫn đến tình trạng việc triển khai thực hiện một số chế định pháp luật còn thiếu đồng bộ, nhất là xử lý vi phạm chưa kịp thời và đủ nghiêm khắc. Ngoài ra, điều 37 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP yêu cầu người kinh doanh: “Tuân thủ quy định của pháp luật về thanh toán, quảng cáo, khuyến mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các quy định của pháp luật có liên quan khác khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ…”. Có thể thấy, hiệu lực của điều luật này chưa cao, người kinh doanh vẫn thường xuyên vi phạm về sở hữu trí tuệ như bán hàng giả, hàng nhái, vi phạm luật quảng cáo như có những hình ảnh đồi trụy, khiêu dâm nhằm thu hút khách… Tuy nhiên, cơ quan quản lý vẫn chưa có nhiều động thái can thiệp xử lý nghiêm khắc khiến tình trạng này diễn ra ngày một nhiều và ngang nhiên.
Thứ ba, pháp luật có quy định về nghĩa vụ đóng thuế nhưng thực tế rất khó để có thể thu thuế từ người kinh doanh qua mạng, gây thất thu thuế và tạo môi trường cạnh tranh không công bằng cho các loại hình kinh doanh khác. Đó là do kinh doanh trên mạng xã hội có đặc điểm ảo, dựa trên nền tảng công nghệ, khó kiểm chứng thông tin nhận dạng, dễ dàng xóa bỏ, thay đổi nên tạo sự khó khăn trong việc nắm bắt các giao dịch. Đồng thời, người kinh doanh qua mạng xã hội không phải đăng ký kinh doanh nên cơ quan thuế lại càng khó khăn trong việc kê khai và thu thuế. Thậm chí, người bán còn không lập hóa đơn dù giá trị từ 200 nghìn đồng trở nên theo quy định của pháp luật nhằm trốn thuế. Trong khi đó, thói quen mua hàng không lấy hóa đơn, trao trả bằng tiền mặt của người tiêu dùng vô tình tiếp tay cho người kinh doanh trốn thuế. Những tồn tại trên đã khiến cho việc hoạt động quản lý thuế nói chung và thuế trên mạng xã hội hiện nay gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Ngoài ra, phương thức thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội cũng đòi hỏi những yêu cầu rất khác so với thanh tra, kiểm tra theo phương thức truyền thống. Chẳng hạn, để thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, cán bộ thuế cần phải có trình độ cao về tin học, ngoại ngữ và phải giỏi về các ứng dụng, phần mềm hỗ trợ để truy lần dấu vết giao dịch, kết xuất dữ liệu lịch sử giao dịch làm bằng chứng đấu tranh đối với các hành vi vi phạm của người nộp thuế. Trên thực tế, trình độ công nghệ và điều kiện của cán bộ thuế hiện nay chưa thể để bao quát được nhiệm vụ này. Có thể nói, tuy pháp luật đã có những quy định về vấn đề đóng thuế nhưng những quy định này chưa thực sự có hiệu quả đối với hình thức kinh doanh qua mạng. Đây có thể coi là vướng mắc lớn cần được nghiên cứu, giải quyết.
Tóm lại, những quy định này vẫn tồn tại nhiều thiếu sót, thiếu cụ thể và chi tiết. Ngoài ra, trong thời điểm kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh. Các quy định này vẫn chưa đủ linh hoạt để giải quyết những vấn đề đó. Nhìn chung, vào những năm trước đây, khi kinh doanh qua mạng còn chưa phát triển thì những quy định này có thể nói là tương đối đầy đủ để xử lý những tình huống tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên, với những hạn chế nêu trên thì còn tồn tại những vướng mắc của quy định cần được cân nhắc, xem xét, bổ sung.
Những vấn đề pháp lý nảy sinh trong kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội
Từ những hạn chế và vướng mắc tồn tại trong các quy định của pháp luật, nhiều vấn đề pháp lý về kinh doanh qua nền tảng mạng xã hội đã nảy sinh.
Trước hết, vấn đề dễ xảy ra nhất là mâu thuẫn giữa người kinh doanh và khách hàng. Do chỉ trao đổi, bàn bạc và thống nhất qua mạng xã hội trực tuyến nên những bất đồng ý kiến dễ xảy ra. Giao dịch trực tuyến khiến cho người kinh doanh và khách hàng không hiểu biết rõ về đối phương, dẫn đến tình trạng lừa đảo. Vô số thủ đoạn, phương thức lừa đảo diễn ra, ngày càng đa dạng, tinh vi và phức tạp[4]. Pháp luật về kinh doanh qua mạng xã hội còn quá đơn giản, kém linh hoạt để điều tra kiểm soát, xử lý những chiêu trò đó. Điều này đã ảnh hưởng không ít tới những nhà kinh doanh chân chính và tạo tiếng xấu cho phương thức kinh doanh trên mạng xã hội. Ngoài ra, quá trình vận chuyển từ người bán đến người mua cũng gây ra một số bất cập[5]. Thời gian vận chuyển phụ thuộc vào đơn vị vận chuyển và những yếu tố khách quan như dịch bệnh, thiên tai…, song khi hàng hóa bị giao lâu, khách hàng nhận được hàng chậm thì họ sẽ từ chối nhận. Tình trạng này diễn ra khiến cho người kinh doanh phải chịu tổn thất phí vận chuyển hai chiều: chiều đi – chiều hoàn về, phí gói hàng hóa và thậm chí là vận chuyển nhiều khiến cho hàng hóa có thể bị hư hỏng. Đối với khách hàng, quá trình vận chuyển đôi lúc làm hàng hóa không còn nguyên vẹn về hình thức hoặc chất lượng, trong khi đó người mua không được kiểm tra khi nhận hàng và vô tình phải mất tiền oan cho sản phẩm đó, tạo ra ác cảm với việc mua sắm trực tuyến. Từ sau, khách hàng có thể sẽ tránh người kinh doanh sản phẩm đó hay không sử dụng mạng xã hội đó để mua sắm.
Thứ hai, kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội làm phát sinh mâu thuẫn giữa những người kinh doanh. Khi mới hình thành cách đây 3-4 năm, bán hàng trên mạng xã hội chỉ là tận dụng mạng xã hội kiếm thêm thu nhập, hiện nay kinh doanh trực tuyến đã trở thành một nghề được giới trẻ lựa chọn để khởi nghiệp vì cho mức thu nhập cao. Riêng Hà Nội, theo sự thống kê của Chi cục Thuế Hà Nội đã có 13.400 shop bán hàng trực tuyến, còn ở TP. HCM con số này là trên 13.500 shop, hầu hết thuộc sở hữu của giới trẻ. Bình quân, mỗi shop có từ 5-20 người có nghĩa là riêng Hà Nội đã có ít nhất 67.000 người tham gia bán hàng trực tuyến chưa kể các cá nhân nhỏ lẻ khác[6]. Chính vì xu hướng tăng của số người kinh doanh trực tuyến, tình trạng cạnh tranh luôn diễn ra gay gắt, không có dấu hiệu thuyên giảm. Bản chất của cạnh tranh là để phát triển, song đó phải là cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, trên mạng xã hội hiện tại, không ít người kinh doanh bất chấp thủ đoạn để đạt được lợi ích, lợi nhuận và điều này dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh. Đối thủ tung tin đồn thất thiệt, tự ý hạ thấp giá thành sản phẩm xuống mức dưới quy định để lôi kéo khách hàng từ phía nhà kinh doanh. Tình trạng này gây thiệt hại cho những nhà kinh doanh lành mạnh; làm cho thị trường kinh doanh trên nền tảng mạng xã hội bị nhiễu loạn, khó kiểm soát và ảnh hưởng đến cả những phương thức kinh doanh khác.
Cuối cùng, với một thị trường rộng lớn như mạng xã hội thì việc kiểm tra, quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với người kinh doanh, khách hàng và sản phẩm là vô cùng khó khăn. Việc trao đổi kinh doanh diễn ra hàng ngày hàng giờ với tốc độ nhanh chóng, mẫu mã sản phẩm gồm nhiều chủng loại, khách hàng đa dạng từ ngành nghề, độ tuổi, quốc tịch. Công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường trực tuyến cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do hoạt động buôn lậu, với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả, gian lận thương mại diễn biến rất phức tạp, khó lường. Các cơ quan quản lý cần phải sát sao, siết chặt công tác kiểm tra, giám sát sao cho có hiệu quả nhất nhằm ổn định thị trường mạng xã hội, bảo vệ lợi ích cho cả người kinh doanh và khách hàng.
Một số kiến nghị
Về phía quy định của pháp luật, để việc quản lý hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội được hiệu quả, không bị thất thu thuế thì trước hết, khung pháp lý cho kinh doanh trực tuyến cần được hoàn thiện, đặc biệt là trên nền tảng mạng xã hội. Đồng thời, nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn pháp luật đối liên quan đến kinh doanh trực tuyến. Như thế, người tham gia kinh doanh có thể hiểu biết, nắm rõ tường tận những quy định đối với việc kinh doanh của mình, từ đó sẽ thực hiện đúng và giảm thiểu tranh chấp cũng như vi phạm pháp luật. Các cơ quan lập pháp của Việt Nam cần bổ sung thêm các quy định về cách thức quản lý các mạng xã hội kinh doanh thương mại điện tử; phân quyền quản lý cụ thể, rõ ràng cho các cơ quan quản lý có liên quan; đưa ra các chế tài có sức răn đe tương ứng với các hành vi vi phạm. Tiếp đó, cần phát triển hạ tầng kỹ thuật cho thanh toán điện tử, đẩy mạnh hơn nữa các dịch vụ công như: hải quan điện tử; kê khai thuế và nộp thuế điện tử;… Ngoài ra, cần xây dựng một hệ sinh thái trong nội bộ các cơ quan chức năng để các cơ quan này có thể phối hợp, nắm bắt thông tin và có được sự đồng bộ trong việc quản lý các doanh nghiệp, các cá nhân là thương nhân thực hiện hoạt động kinh doanh trên các trang mạng xã hội.
Những cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường giám sát, quản lý thị trường kinh doanh trực tuyến. Cụ thể, Tổng cục Thuế nên phối hợp giữa ngành Thuế với Bộ Công thương, Bộ Thông tin – truyền thông, đơn vị quản lý các trang mạng xã hội (Facebook, Instagram…) để nắm danh sách các website, các tài khoản của các tổ chức, cá nhân có hoạt động thương mại điện tử trên mạng xã hội. Ngành thuế phối hợp với các nhà mạng và đại diện các trang mạng xã hội quản lý Việt Nam để chặn tài khoản đối với những chủ tài khoản kinh doanh trực tuyến có doanh số lớn nhưng không chấp hành các nghĩa vụ thuế. Khi bị đóng tài khoản cũ, việc lập tài khoản mới sẽ không dễ có ngay lượng khách như cũ. Do vậy, chặn tài khoản kinh doanh là một biện pháp hiệu quả trong trường hợp này. Thêm vào đó, phối hợp giữa ngành Thuế với Cơ quan Công an đề nghị cung cấp cho Cơ quan Thuế các cá nhân, tổ chức có hoạt động kinh doanh chưa kê khai nộp thuế do Cơ quan Công an phát hiện để cơ quan thuế xử lý truy thu theo quy định…
Đồng thời, Tổng cục Quản lý thị trường phải phát huy tối đa vai trò của mình trong việc quản lý, điều tra xuất xứ, chất lượng hàng hóa, dịch vụ được bán trên mạng xã hội nhằm phát hiện được hàng lậu, hàng giả, hàng nhái. Hiện nay, thị trường kinh doanh truyền thống có các Đội quản lý thị trường theo dõi, kiểm soát nhưng thị trường trực tuyến thì chưa có. Vì thế, cần nhanh chóng thành lập đội Quản lý thị trường đối với thị trường trực tuyến, thiết lập những đường dây nóng xử lí nhanh chóng những khiếu nại và phải xử lý nghiêm khắc những cá nhân, cửa hàng vi phạm để răn đe những trường hợp khác. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền sẽ giúp thị trường kinh doanh trực tuyến qua mạng xã hội trở nên trong sạch, lành mạnh và phát triển.
Để hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội được hiệu quả và hợp pháp, mỗi người cần tự giác tuân thủ đúng những quy định của pháp luật trong quá trình kinh doanh. Trên thực tế, những vấn đề pháp lý xảy ra xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về pháp luật của người kinh doanh hoặc là biết luật nhưng cố tình vi phạm. Vì thế, các cá nhân cũng như tổ chức phải tăng cường vốn kiến thức pháp lý để áp dụng vào thực tiễn nhằm biết cách giải quyết tranh chấp, hạn chế rủi ro. Để làm được điều này, Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật cần tổ chức tuyên truyền, phổ cập pháp luật cho những cá nhân, tổ chức tham gia kinh doanh bằng các hình thức như tuyên truyền qua chính các trang mạng xã hội – nơi họ thực hiện kinh doanh, phát động các cuộc thi theo hội nhóm để tạo phong trào lớn trong cộng đồng, mời các diễn giả chia sẻ kiến thức về pháp luật cũng như kinh doanh theo định kỳ với hình thức trực tuyến…
Cùng với đó, những người kinh doanh phải có ý thức phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xây dựng thị trường mạng xã hội an toàn – lành mạnh – chất lượng thông qua việc khai báo những cơ sở có hành vi buôn bán gian lận, trái pháp luật hoặc sử dụng thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh chống phá thị trường. Hơn bất kì ai, người kinh doanh trực tuyến chính là nhân tố quan trọng góp phần phát huy hiệu quả của pháp luật trong thực tiễn.
Hệ thống pháp luật Việt Nam chứa đựng những quy định về kinh doanh trong các ngành luật như: Luật thương mại, Luật doanh nghiệp, Luật Giao dịch điện tử… và các thông tư, nghị định có liên quan. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội phát triển mạnh mẽ làm nảy sinh một số vấn đề phức tạp, vượt ngoài tầm kiểm soát của các quy định pháp lý trên. Điều này gây ra nhiều khó khăn, thách thức cho các bên chủ thể tham gia vào quan hệ kinh doanh trực tuyến và cho cơ quan nhà nước.
Hệ thống pháp luật Việt Nam căn bản đã có những quy định pháp lý điều chỉnh các vấn đề liên quan đến kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội. Có thể thấy những quy định đó đã phần nào phát huy vai trò trong thực tiễn. Tuy nhiên, với sự phát triển và mở rộng nhanh chóng của mạng xã hội, Việt Nam cần tìm ra những giải pháp phù hợp và kịp thời đưa ra những quy định mới – đầy đủ và chi tiết hơn để quản lý, kiểm soát thị trường mạng xã hội. Nếu làm được điều này, kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội của nước ta sẽ mang lại giá trị cao hơn, góp phần thúc đẩy kinh tế quốc gia.
[1] Điều 3 Khoản 22 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP
[2] “Top 5 mạng xã hội lớn nhất Việt Nam 2021”, 27/02/2020, xem tại: https://freetuts.net/thu-thuat/mang-xa-hoi-lon-nhat-tai-viet-nam-648t.html (truy cập ngày 22/2/2021)
[3] Nguyễn Thị Thu Thủy, “Pháp luật về đăng kí kinh doanh ở Việt Nam hiện nay”, Hà Nội, 2016, tr.34
[4] “Mua hàng trên mạng và những cú lừa dễ bị ‘sập bẫy’ nhất”, 13/03/2020, xem tại:
https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/tu-van-tai-chinh/mua-hang-tren-mang-va-nhung-cu-lua-de-bi-sap-bay-nhat-623808.html (truy cập ngày 22/2/2021)
[5] “Những rủi ro khi giao nhận hàng online”, 05/04/2020, xem tại: http://www.antv.gov.vn/tin-tuc/xa-hoi/nhung-rui-ro-khi-giao-nhan-hang-online-309032.html (truy cập ngày 22/2/2021)
[6] Phạm Văn Tuấn, “Một số vấn đề kinh tế – xã hội phát sinh từ hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch vụ trên mạng xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”, 12/03/2020, xem tại:
http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/mot-so-van-de-kinh-te-xa-hoi-phat-sinh-tu-hoat-dong-kinh-doanh-hang-hoa-dich-vu-tren-mang-xa-hoi-trong-boi-canh-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-40-69590.htm (truy cập ngày 24/2/2021)